• Pháp luật - Bạn đọc

Đừng nhầm lẫn giữa công chứng và chứng thực

27/01/2018 06:00 GMT +7
  • Nguồn: Báo Sóc Trăng
  • Thứ Bảy, 27/01/2018 | 06:00

STO - Nhiều người lúng túng không biết khi nào sẽ thực hiện công chứng, khi nào thì chứng thực. Thậm chí, có người còn lầm tưởng giữa công chứng, chứng thực là một. Nhưng đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.

Hoạt động công chứng tại Văn phòng Công chứng Ba Xuyên.

Theo đồng chí Huỳnh Hoàng Vũ - Phó Giám đốc Sở Tư pháp, công chứng và chứng thực là hai hoạt động khác biệt, cần có sự phân biệt rõ ràng đối với hai loại hình này. Điều này sẽ giúp cho cá nhân, tổ chức có được sự lựa chọn chính xác và đảm bảo thực hiện đúng các giao dịch, hợp đồng theo quy định của pháp luật. Trước hết, công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng, chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng (theo Khoản 1, Điều 2 Luật Công chứng năm 2014). Còn căn cứ Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ thì chứng thực được xem xét ở hai khía cạnh như: chứng thực là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính hoặc chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yêu cầu chứng thực. Chứng thực là việc cơ quan có thẩm quyền chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên giao kết hợp đồng, giao dịch.

Một điểm đáng lưu ý, công chứng hợp đồng, giao dịch thuộc tổ chức hành nghề công chứng (Phòng Công chứng, Văn phòng Công chứng) thực hiện. Chứng thực hợp đồng, giao dịch được thực hiện tại phòng tư pháp cấp huyện, UBND cấp xã. Về người thực hiện, công chứng là hoạt động do công chứng viên thực hiện; hay nói cách khác chủ thể thực hiện hoạt động công chứng chỉ là công chứng viên (công chứng viên là những người đáp ứng được đầy đủ điều kiện về trình độ pháp lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thâm niên công tác… do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm). Còn chứng thực do trưởng phòng, phó trưởng phòng của phòng tư pháp hoặc chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã thực hiện.

Xét về trách nhiệm, người thực hiện chứng thực và công chứng viên cũng hoàn toàn khác nhau. Công chứng viên phải chịu trách nhiệm về tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch được công chứng (chịu trách nhiệm về mặt nội dung); về toàn bộ hợp đồng, giao dịch được công chứng và họ phải chịu trách nhiệm cá nhân cả đời về việc mà họ đã công chứng. Riêng đối với người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Lưu ý, người thực hiện chứng thực sẽ không chịu trách nhiệm về nội dụng của hợp đồng, giao dịch được chứng thực (trừ trường hợp người thực hiện chứng thực biết rõ ràng là hợp đồng, giao dịch đó trái pháp luật).

Cũng theo đồng chí Huỳnh Hoàng Vũ, xét về giá trị thì có 3 điểm mà cá nhân, tổ chức cần phải quan tâm. Cụ thể, văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật (trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác). Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh (trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu) và bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch. Về chứng thực, bản sao được chứng thực từ bản chính có giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Chữ ký được chứng thực có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy tờ, văn bản. Hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị chứng cứ chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.

Đồng chí Huỳnh Hoàng Vũ còn cho biết thêm: Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ chỉ quy định một thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch khá đơn giản cho chứng thực tất cả các loại hợp đồng, giao dịch. Cụ thể, xuất trình hồ sơ hợp lệ (người yêu cầu chứng thực nộp một bộ hồ sơ, trong đó, có dự thảo hợp đồng, giao dịch cần chứng thực); kiểm tra hồ sơ (người thực hiện chứng thực tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ của người yêu cầu chứng thực, nếu hợp lệ thì thực hiện chứng thực); thực hiện chứng thực (người thực hiện chứng thực yêu cầu các bên tham gia hợp đồng, giao dịch phải ký trước mặt mình, ghi lời chứng, ký tên đóng dấu); và trả kết quả chứng thực, thu lệ phí chứng thực. Còn theo luật công chứng, thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch có hai loại là hợp đồng, giao dịch do người yêu cầu công chứng tự soạn thảo và hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo. Trong đó, người yêu cầu công chứng lập một bộ hồ sơ (trong đó có dự thảo hợp đồng, giao dịch cần chứng thực); công chứng viên kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng (trường hợp hồ sơ yêu cầu công chứng đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật thì thụ lý và ghi vào sổ công chứng); công chứng viên ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch và trả kết quả công chứng, thu phí công chứng.

Hiện nay, phí chứng thực hợp đồng, giao dịch được quy định tại Thông tư số 226/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính, có hiệu lực ngày 1-1-2017, có quy định 3 loại phí gồm: phí chứng thực bản sao từ bản chính; phí chứng thực chữ ký; phí chứng thực hợp đồng, giao dịch. Đối với phí công chứng hợp đồng, giao dịch được quy định tại Thông tư số 257/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính, có hiệu lực ngày 1-1-2017 và Thông tư số 111/2017/TT-BTC ngày 20-10-2017 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 257/2016/TT-BTC; theo đó, phí công chứng được thu trên cơ sở giá trị tài sản, giá trị khoản vay hoặc giá trị của hợp đồng. Bên cạnh, người yêu cầu công chứng còn phải trả thù lao khi yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng thực hiện việc soạn thảo hợp đồng, giao dịch, đánh máy, sao chụp, dịch giấy tờ, văn bản và các việc khác liên quan đến việc công chứng.

Hy vọng, thông qua các quy định trên sẽ giúp cho các cá nhân, tổ chức phân biệt chính xác sự khác nhau giữa công chứng và chứng thực. Từ đó, có sự lựa chọn phù hợp.

Sớm Mai

Bình Luận

Ý kiến bạn đọc
Tin cùng chuyên mục
>> Xem thêm

Báo Sóc Trăng Online - baosoctrang.org.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Sóc Trăng
Tổng Biên tập: Nguyễn Văn Triều

Phó Tổng Biên tập: Lê Hoàng Bắc - Lê Minh Trường - Trần Thị Thu Thảo
Giấy phép xuất bản số: 833/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 30-12-2021
Tòa soạn: Số 02, Trần Văn Sắc, Phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng
Điện thoại: 0299 3 822499 - Fax: 0299 3 622049 
Email: baosoctrangdientu@gmail.com hoặc toasoanbaosoctrang@gmail.com
Báo Sóc Trăng giữ bản quyền nội dung trên website này

Tổng số lượt truy cập: