• Pháp luật - Bạn đọc

Những trường hợp thu hồi giấy đăng ký hành nghề luật sư, tổ chức hành nghề luật sư

28/04/2019 06:00 GMT +7
  • Nguồn: Báo Sóc Trăng
  • Chủ Nhật, 28/04/2019 | 06:00

STO - UBND tỉnh Sóc Trăng vừa ban hành Kế hoạch số 63/KH-UBND, ngày 22-4-2019 triển khai thực hiện Nghị định số 137/2018/NĐ-CP, ngày 8-10-2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2013/NĐ-CP, ngày 14-10-2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư; nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 25-11-2018. Để tìm hiểu rõ hơn về nội dung quy định này, chúng tôi có cuộc trao đổi với đồng chí Huỳnh Hoàng Vũ – Phó Giám đốc Sở Tư pháp.

Phóng viên: Xin đồng chí vui lòng cho biết nội dung cơ bản của nghị định này?

Đồng chí Huỳnh Hoàng Vũ: Nghị định này quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư về cơ sở đào tạo nghề luật sư; tiêu chuẩn của luật sư; trợ giúp pháp lý của luật sư; nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng bắt buộc của luật sư; quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư; tổ chức hành nghề luật sư; thù lao luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự; tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư; hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam.

Phóng viên: Nghị định số 137/2018/NĐ-CP quy định như thế nào về người không đủ tiêu chuẩn về tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; người không đủ tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức tốt?

Đồng chí Huỳnh Hoàng Vũ: Người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không đủ tiêu chuẩn tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, không đủ tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức tốt theo quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư:

Đã bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức mà quyết định kỷ luật chưa chấm dứt hiệu lực hoặc bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc mà chưa hết thời hạn 3 năm, kể từ ngày quyết định buộc thôi việc có hiệu lực; đã bị xử lý hành chính về một trong các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác, quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước, cản trở, chống lại việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ hoặc đưa hối lộ người thi hành công vụ nhưng chưa hết thời hạn 1 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hành chính.

Đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật hoặc xử lý hình sự hoặc có kết luận của cơ quan có thẩm quyền về một trong các hành vi liên quan đến chiếm đoạt tài sản, trục lợi, gian lận, gian dối, xâm phạm an ninh quốc gia; ứng xử, phát ngôn làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín nghề luật sư hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tham gia, lôi kéo, kích động, mua chuộc, cưỡng ép người khác tập trung đông người để gây rối trật tự công cộng, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quy định tại Điểm b, d, e, g, i hoặc k, Khoản 1, Điều 9 của Luật Luật sư; vi phạm pháp luật khác do cố ý đã bị xử lý kỷ luật từ 2 lần trở lên.

Người thuộc trường hợp quy định tại Điểm a, Khoản 1 điều này mà quyết định kỷ luật đã chấm dứt hiệu lực hoặc đã hết thời hạn 3 năm, kể từ ngày quyết định kỷ luật buộc thôi việc có hiệu lực hoặc đã hết thời hạn 1 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hành chính hoặc người bị kết án về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý mà đã được xóa án tích và không thuộc trường hợp quy định tại Điểm b, Khoản 1 điều này nếu có văn bản giải trình, cam kết về quá trình phấn đấu về việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có xác nhận của cơ quan, tổ chức nơi làm việc cuối cùng của người đó trước thời điểm đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc của công an xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú thì được coi là đã sửa chữa, rèn luyện và đáp ứng tiêu chuẩn về tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt theo quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư.

Phóng viên: Những trường hợp nào được miễn đào tạo nghề luật sư và miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư, thưa đồng chí?

Đồng chí Huỳnh Hoàng Vũ: Người thuộc trường hợp quy định tại Điều 13 và Điều 16 của Luật Luật sư được miễn đào tạo nghề luật sư và miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư.

Người đã bị xử lý hình sự hoặc xử lý kỷ luật đến mức bị cách chức chức danh thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, kiểm tra viên, thẩm tra viên; tước danh hiệu công an nhân dân, tước quân hàm sĩ quan quân đội nhân dân; tước học hàm, học vị giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật hoặc đã bị thu hồi quyết định bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp, chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật thì không được miễn đào tạo nghề luật sư, miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư theo quy định tại Điều 13 và Điều 16 của Luật Luật sư.

Phóng viên: Còn việc thu hồi giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư với tư cách cá nhân đối với những trường hợp nào?

Đồng chí Huỳnh Hoàng Vũ: Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư bị thu hồi khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Chấm dứt hoạt động theo quy định tại Khoản 1, Điều 47 của Luật Luật sư; bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức tước quyền sử dụng giấy đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; không đăng ký mã số thuế trong thời hạn 1 năm, kể từ ngày được cấp giấy đăng ký hoạt động; không hoạt động liên tục tại trụ sở đã đăng ký trong thời hạn 6 tháng, trừ trường hợp tạm ngừng hoạt động theo quy định của pháp luật; không hoạt động trở lại hoặc không có báo cáo về việc tiếp tục tạm ngừng hoạt động quá 6 tháng, kể từ ngày hết thời hạn tạm ngừng hoạt động theo quy định của pháp luật.

Giấy đăng ký hoạt động của chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư bị thu hồi khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Tổ chức hành nghề luật sư thành lập chi nhánh bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động theo quy định tại Khoản 1 điều này; tổ chức hành nghề luật sư thành lập chi nhánh quyết định chấm dứt hoạt động của chi nhánh; chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điểm b, c, d hoặc đ, Khoản 1 điều này.

Giấy đăng ký hành nghề luật sư với tư cách cá nhân bị thu hồi khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Tự chấm dứt hành nghề; bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư theo quy định tại Khoản 1, Điều 18 của Luật Luật sư.

Phóng viên: Theo Nghị định số 137/2018/NĐ-CP, Sở Tư pháp có trách nhiệm ra sao đối với việc thu hồi giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư với tư cách cá nhân?

Đồng chí Huỳnh Hoàng Vũ: Sở Tư pháp ra quyết định thu hồi giấy đăng ký hoạt động; theo dõi, giám sát tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư trong việc thực hiện các thủ tục quy định tại các Khoản 2, 3 và 4, Điều 47 của Luật Luật sư. Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi quyết định thu hồi giấy đăng ký hoạt động cho đoàn luật sư, cơ quan thuế nơi đăng ký hoạt động, cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh, cấp huyện và công bố trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp; đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi con dấu của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư. Trong trường hợp tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động do bị xử phạt vi phạm hành chính thì Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi quyết định thu hồi giấy đăng ký hoạt động cho cơ quan ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó.

Sở Tư pháp có trách nhiệm thu hồi giấy đăng ký hành nghề luật sư với tư cách cá nhân khi luật sư thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 3 điều này. Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi quyết định thu hồi giấy đăng ký hành nghề luật sư với tư cách cá nhân cho đoàn luật sư nơi luật sư đó là thành viên, cơ quan, tổ chức nơi luật sư ký hợp đồng lao động và công bố trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp.

Phóng viên: Xin cảm ơn đồng chí!

Mai Khôi (Thực hiện)

Bình Luận

Ý kiến bạn đọc
Tin cùng chuyên mục
>> Xem thêm

Báo Sóc Trăng Online - baosoctrang.org.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Sóc Trăng
Tổng Biên tập: Nguyễn Văn Triều

Phó Tổng Biên tập: Lê Hoàng Bắc - Lê Minh Trường - Trần Thị Thu Thảo
Giấy phép xuất bản số: 833/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 30-12-2021
Tòa soạn: Số 02, Trần Văn Sắc, Phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng
Điện thoại: 0299 3 822499 - Fax: 0299 3 622049 
Email: baosoctrangdientu@gmail.com hoặc toasoanbaosoctrang@gmail.com
Báo Sóc Trăng giữ bản quyền nội dung trên website này

Tổng số lượt truy cập: