• Pháp luật - Bạn đọc

Văn phòng đại diện của doanh nghiệp đấu giá tài sản không được thực hiện việc đấu giá tài sản

24/06/2019 06:00 GMT +7
  • Nguồn: Báo Sóc Trăng
  • Thứ Hai, 24/06/2019 | 06:00

STO - Hoạt động đấu giá tài sản (ĐGTS) được thông qua các Trung tâm dịch vụ ĐGTS, doanh nghiệp ĐGTS. Trung tâm dịch vụ ĐGTS là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp. Riêng doanh nghiệp ĐGTS được thành lập, tổ chức và hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh theo quy định của Luật ĐGTS và quy định khác của pháp luật có liên quan. Để tìm hiểu rõ hơn các nội dung quy định về doanh nghiệp ĐGTS, chúng tôi đã trao đổi cùng ông Huỳnh Hoàng Vũ – Phó Giám đốc Sở Tư pháp.

Phóng viên: Ông có thể cho biết điều kiện đăng ký của doanh nghiệp ĐGTS được quy định ra sao?

Ông Huỳnh Hoàng Vũ: Điều kiện đăng ký hoạt động của doanh nghiệp ĐGTS gồm: Doanh nghiệp đấu giá tư nhân có chủ doanh nghiệp là đấu giá viên, đồng thời là giám đốc doanh nghiệp; công ty đấu giá hợp danh có ít nhất một thành viên hợp danh là đấu giá viên, tổng giám đốc hoặc giám đốc của công ty đấu giá hợp danh là đấu giá viên; có trụ sở, cơ sở vật chất, các trang thiết bị cần thiết bảo đảm cho hoạt động ĐGTS quy định tại Khoản 3, Điều 23 Luật ĐGTS năm 2016.

Phóng viên: Việc đăng ký hoạt động của doanh nghiệp ĐGTS được quy định như thế nào, thưa ông?

Ông Huỳnh Hoàng Vũ: Doanh nghiệp đáp ứng quy định tại Điều 23 của luật này gửi một bộ hồ sơ đề nghị đăng ký hoạt động ĐGTS đến Sở Tư pháp nơi doanh nghiệp đặt trụ sở và nộp phí theo quy định của pháp luật. Hồ sơ bao gồm: Giấy đề nghị đăng ký hoạt động; điều lệ của doanh nghiệp đối với công ty đấu giá hợp danh; bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm bản chính để đối chiếu chứng chỉ hành nghề đấu giá của chủ doanh nghiệp đấu giá tư nhân, chứng chỉ hành nghề đấu giá của thành viên hợp danh, tổng giám đốc hoặc giám đốc của công ty đấu giá hợp danh; giấy tờ chứng minh về trụ sở của doanh nghiệp ĐGTS, cam kết bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết cho hoạt động ĐGTS.

Về trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động của doanh nghiệp ĐGTS thực hiện theo quy định tại Khoản 2, Khoản 3, Điều 25 Luật ĐGTS năm 2016.

Phóng viên: Theo quy định của Luật ĐGTS, doanh nghiệp ĐGTS có được thành lập chi nhánh hay không?

Ông Huỳnh Hoàng Vũ: Chi nhánh của doanh nghiệp ĐGTS được thành lập ở trong hoặc ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp ĐGTS đăng ký hoạt động. Doanh nghiệp ĐGTS chịu trách nhiệm về hoạt động của chi nhánh và cử một đấu giá viên của doanh nghiệp làm trưởng chi nhánh (Khoản 1, Điều 29 Luật ĐGTS năm 2016).

Phóng viên: Riêng việc thành lập văn phòng đại diện thì được quy định ra sao, thưa ông?

Ông Huỳnh Hoàng Vũ: Văn phòng đại diện của doanh nghiệp ĐGTS do doanh nghiệp thành lập trong hoặc ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đăng ký hoạt động. Văn phòng đại diện không được thực hiện việc ĐGTS (Khoản 1, Điều 30 Luật ĐGTS năm 2016).

Phóng viên: Trường hợp nào doanh nghiệp ĐGTS chấm dứt hoạt động?

Ông Huỳnh Hoàng Vũ: Doanh nghiệp ĐGTS chấm dứt hoạt động trong các trường hợp: Giải thể; hợp nhất, bị sáp nhập; phá sản; bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động theo quy định tại Khoản 1, Điều 32 của Luật ĐGTS năm 2016.

Phóng viên: Vậy doanh nghiệp ĐGTS bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động trong trường hợp nào, thưa ông?

Ông Huỳnh Hoàng Vũ: Doanh nghiệp ĐGTS bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động trong các trường hợp như: Không đáp ứng quy định tại Khoản 3, Điều 23 của luật này; nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký hoạt động là giả mạo; ngừng hoạt động 1 năm mà không thông báo với Sở Tư pháp nơi doanh nghiệp đăng ký hoạt động; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi không gửi báo cáo theo quy định tại Điểm 1, Khoản 2, Điều 24 của luật này mà tái phạm; trường hợp khác theo quyết định của tòa án; về trình tự, thủ tục thực hiện việc thu hồi giấy đăng ký hoạt động của doanh nghiệp ĐGTS theo quy định tại Khoản 2, Điều 32 Luật ĐGTS năm 2016.

Sở Tư pháp nơi doanh nghiệp đấu giá tài sản đăng ký hoạt động công bố thông tin về việc thu hồi giấy đăng ký hoạt động của doanh nghiệp trên cổng thông tin điện tử của Sở Tư pháp; thông báo bằng văn bản đến cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan kế hoạch và đầu tư nơi doanh nghiệp đăng ký hoạt động và báo cáo Bộ Tư pháp.

Phóng viên: Luật ĐGTS quy định về những trường hợp nào được hủy kết quả ĐGTS?

Ông Huỳnh Hoàng Vũ: Điều 72 Luật ĐGTS năm 2016 quy định kết quả ĐGTS bị hủy trong các trường hợp sau đây: Theo thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá, tổ chức ĐGTS và người trúng đấu giá về việc hủy kết quả ĐGTS hoặc giữa người có tài sản đấu giá và người trúng đấu giá về việc hủy giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, trừ trường hợp gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; hợp đồng dịch vụ ĐGTS, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá bị tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định của pháp luật về dân sự trong trường hợp người trúng đấu giá có hành vi vi phạm quy định tại Điểm b, Khoản 5, Điều 9 của luật này; hợp đồng dịch vụ ĐGTS bị hủy bỏ theo quy định tại Khoản 6, Điều 33 của luật này; người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, tổ chức ĐGTS, đấu giá viên có hành vi thông đồng, móc nối, dìm giá trong quá trình tham gia đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc hồ sơ tham gia đấu giá hoặc kết quả ĐGTS; theo quyết định của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp ĐGTS nhà nước khi có một trong các căn cứ quy định tại Khoản 6, Điều 33 của luật này.

Phóng viên: Như vậy hậu quả pháp lý khi hủy kết quả ĐGTS được quy định ra sao?

Ông Huỳnh Hoàng Vũ: Trường hợp hủy kết quả ĐGTS theo quy định tại các Khoản 2, 3, 4 và 5, Điều 72 của luật này thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật (theo Điều 73 Luật ĐGTS).

Phóng viên: Xin cảm ơn ông!

Thiên Tường (Thực hiện)

Bình Luận

Ý kiến bạn đọc
Tin cùng chuyên mục
>> Xem thêm

Báo Sóc Trăng Online - baosoctrang.org.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Sóc Trăng
Tổng Biên tập: Nguyễn Văn Triều

Phó Tổng Biên tập: Lê Hoàng Bắc - Lê Minh Trường - Trần Thị Thu Thảo
Giấy phép xuất bản số: 833/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 30-12-2021
Tòa soạn: Số 02, Trần Văn Sắc, Phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng
Điện thoại: 0299 3 822499 - Fax: 0299 3 622049 
Email: baosoctrangdientu@gmail.com hoặc toasoanbaosoctrang@gmail.com
Báo Sóc Trăng giữ bản quyền nội dung trên website này

Tổng số lượt truy cập: