Ảnh minh họa.
Triệu chứng của bệnh bạch hầu
Theo ghi nhận từ những thông tin y tế, vừa qua tại Nghệ An đã có trường hợp tử vong do bệnh bạch hầu và tại Bắc Giang đã có trường hợp mắc bệnh do tiếp xúc với bệnh nhân tử vong nêu trên.
Tại Nghệ An, tính cho đến ngày 8/7/2024 đã có 119 trường hợp tiếp xúc với nữ bệnh nhân tử vong do bạch hầu.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm trùng - nhiễm độc, lây theo đường hô hấp và có khả năng gây dịch, do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây nên.
Bệnh có khả năng lây lan dễ dàng từ người bệnh sang người khỏe mạnh qua đường hô hấp và tạo thành dịch nhanh chóng. Vi khuẩn bạch hầu khi xâm nhập vào đường hô hấp, cư trú ở niêm mạc họng, vòm họng, phát triển ở đường hô hấp trên và tiết ra ngoại độc tố.
Ngoại độc tố kích thích gây lở loét tại chỗ và hình thành các giả mạc màu trắng xám, trắng ngà bám chặt vào mũi, họng, lưỡi, khí quản (đường thở), nếu bóc ra sẽ bị chảy máu, cho vào nước không tan. Giả mạc này còn có thể xuất hiện ở vị trí khác như da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hay bộ phận sinh dục.
Đường lây truyền chủ yếu của bệnh bạch hầu là qua đường hô hấp thông qua giọt bắn chứa vi khuẩn bạch hầu của người bệnh hoặc gián tiếp khi cầm, nắm các đồ dùng, vật dụng dính chất bài tiết của người nhiễm bệnh bạch hầu.
Bác sĩ Đỗ Duy Cường nhấn mạnh, bệnh thường gặp ở trẻ em và ở đối tượng chưa có miễn dịch với bệnh bạch hầu do chưa được tiêm vaccine đầy đủ. Vi khuẩn khu trú ở đường hô hấp trên tạo giả mạc dai dính, khó bóc tách và sinh ra ngoại độc tố gây nhiễm độc toàn thân, nguy cơ tử vong do biến chứng tắc đường thở và viêm cơ tim.
Sau khi ủ bệnh từ 2-5 ngày, người bệnh thường có triệu chứng sốt nhẹ, đau họng, khó chịu, mệt mỏi, ăn kém, da xanh, chảy nước mũi, họng hơi đỏ. Đặc biệt khám họng thấy amidan có giả mạc trắng, lúc đầu nhỏ sau lan dần ra bao trùm họng và lưỡi gà, màu trắng, dai, bóc ra dễ chảy máu, hạch cổ sưng to làm cho cổ bạnh ra (bạch hầu họng).
"Triệu chứng nặng của bệnh có thể viêm cơ tim, viêm thanh quản (gây khàn tiếng, ho ông ổng, thở rít), suy hô hấp, ngạt thở, suy thận, tổn thương thần kinh. Nếu không được điều trị bằng thuốc đặc hiệu thì có thể dẫn tới tử vong", bác sĩ Cường cho hay.
Khuyến cáo của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế.
Dự phòng và điều trị bạch hầu
Bệnh bạch hầu được điều trị đặc hiệu bằng kháng sinh và huyết thanh kháng độc tố bạch hầu (Anti-Diphteria Serum-ADS). Các kháng sinh thông thường như Penicillin G, Erythromycin hoặc Azithromycin có thể diệt được vi khuẩn bạch hầu, thời gian điều trị từ 10-14 ngày.
Đánh giá về nguy cơ lây lan bệnh bạch hầu trong cộng đồng, bác sĩ Cường cho hay, nguy cơ lây lan ra cộng đồng là không lớn, các ca bệnh hiện nay phát hiện mang tính chất lẻ tẻ do hầu hết các đối tượng trẻ em hiện nay đều đã được tiêm phòng vaccine khi còn nhỏ. Chỉ có những trẻ chưa được tiêm phòng vaccine hoặc tiêm chưa đầy đủ theo lịch tiêm chủng thì mới có khả năng mắc bệnh.
Bác sĩ Cường nhấn mạnh, chương trình tiêm chủng mở rộng đã đem lại nhiều hiệu quả để phòng các bệnh dịch thông thường. Ở những nơi vùng sâu vùng xa, độ bao phủ tiêm chủng thấp sẽ dẫn tới lỗ hổng miễn dịch và do đó bệnh còn lưu hành và khó có thể dập tắt. Do đó, trẻ em cần phải tiêm đầy đủ, đúng lịch để có miễn dịch cộng đồng.
Để phòng bệnh, mọi người cần rửa tay đúng quy cách bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn. Nhà ở của người bệnh, dụng cụ trong phòng, đồ dùng, đồ chơi, quần áo của người bệnh phải tẩy uế và sát khuẩn.
Tiêm vaccine bạch hầu đúng lịch. Bắt đầu tiêm từ 2-3 tháng tuổi, tiêm 2 lần, mỗi lần 1ml cách nhau 1 tháng. Một năm sau nhắc lại mỗi một năm 1 lần cho đến 5 tuổi. Người lớn chưa được tiêm hoặc không có miễn dịch cần được tiêm nhắc lại 1 mũi.
Với người tiếp xúc người nhiễm bạch hầu, cần xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong vòng 7 ngày. Ngoài ra cần uống thuốc dự phòng bằng Erythromycin hoặc Azithromycin trong 7 ngày.
THIÊN LAM/ BÁO NHÂN DÂN
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin