“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ…”

00:00, 03/02/2022

STO - Là người Việt Nam, dù ở đâu, từ người già đến trẻ em hay những đôi trai gái đang tuổi dậy thì, từ người nông dân “chân lấm tay bùn” đến thượng lưu, đại gia, dẫu công nhân, trí thức… cứ mỗi độ trời đất chuyển mùa, gió Đông se lạnh, cây cối chớm trổ lộc đâm chồi là đều háo hức đón chờ đến tết Nguyên đán. Tâm thức văn hóa “về quê ăn Tết” không chỉ để được “ăn” cái gì mà chính là để được trở về với nguồn cội, với quê hương bản quán, với việc đoàn tụ gia đình, cúng kiến mồ mả tổ tiên. Hơn nữa, “ăn Tết” là một vấn đề của văn hóa, của nhân cách, của giá trị kết nối vô hình giữa các thế hệ với nhau và cả tưởng nhớ đến những bậc tiền nhân đã khuất. Cho nên, văn hóa ẩm thực ngày Tết cũng là một giá trị văn hóa không thể thiếu trong phong tục tập quán ngày Tết của dân tộc.

Dưa món nói chung giúp bữa ăn ngày Tết thêm nhiều hương vị. Ảnh: TẠ VĂN

Ngày Tết là dịp đặc biệt để sum họp gia đình nên việc chuẩn bị cho một bữa cơm sum vầy và cúng ông bà rất quan trọng. Mỗi miền đất nước lại có phong tục khác nhau. Nếu như mâm cỗ vùng đồng bằng Bắc Bộ theo đúng bài bản gồm 6 bát 8 đĩa (măng, bóng, mực, nấm thả, miến, mọc; thịt gà luộc, giò lụa, chả quế, trứng muối, dưa hành, bánh chưng, lòng gà xào dứa, cá kho…); mâm cỗ cúng gia tiên ở miền Trung mang nhiều màu sắc rất đẹp mắt được bày biện cầu kỳ, tinh tế với: nem chua, tré, bánh tét, dưa ngót, thịt luộc - tôm chua, miến xào tam tơ, tôm càng kho đánh, thịt heo rim mật, bắp bò ngâm nước mắm, cá thu hồng đào, bê non ninh gừng, giò hon xôi trắng, canh hồng táo sen tươi...; thì người miền Nam chuẩn bị mâm cơm cúng ông bà cũng có sự phối hợp hài hòa giữa các món ăn với nhau, giữa món khô và món nước, món thịt và các món rau. Có thể kể sơ qua như: gỏi gà luộc xé phay trộn rau răm, thịt heo kho tàu (kho bệu), bánh tét - củ cải ngâm nước mắm, thịt nguội - chả lụa - nem chua - lạp xưởng, củ kiệu - dưa hành - tôm khô, bánh hỏi - thịt heo quay, canh khổ qua, thịt heo luộc với rau sống bánh tráng, chả giò chiên, cá lóc kho tiêu nước dừa, giò heo nấu củ sen… Chưa kể các loại mứt dừa, mứt quả, bánh trái đủ màu sắc, đủ hình dáng, đủ mùi vị được bày biện thật đẹp mắt để "trước cúng, sau ăn" và tiếp đãi khách khứa trong ba ngày Tết.

Bánh tét là món không thể thiếu trong dịp tết Nguyên đán của người Việt. Ảnh: TẠ VĂN

Thấm thoát bao nhiêu cái Tết đã đi qua, nhưng trong ký ức của một người tóc đã pha sương như chúng tôi thì những cái Tết ở quê nội thuở xưa vẫn in đậm nỗi nhớ da diết, nhất là vào những thời khắc trời đất giao mùa. Nỗi háo hức mỗi dịp xuân sắp về, vừa được nghỉ học là chộn rộn cùng với cả nhà để chuẩn bị cho những ngày Tết đến. Hồi đó, mọi thứ trong nhà từ đồ ăn, thức uống cho đến các vật dụng trang trí nhà cửa đều tự làm lấy, không khí náo nhiệt của ngày Tết vì thế mà lan tỏa khắp thôn quê đến thành thị. Ba má tôi ngay từ đầu tháng chạp đã lấy phấn viết sau cánh cửa gỗ lim cả một "kế hoạch" chuẩn bị cho cả một "lộ trình" lo Tết. Từ rằm tháng chạp đã phải rục rịch lặt lá mai để cận Tết cưa sẵn vài nhánh mai rợp nụ mang vô bày trí trong nhà. Rồi ngày nào đi chợ lựa dưa hấu, lựa bưởi, lựa thịt heo làm chả lụa, thịt đông; bữa nào ra chợ hoa chở mấy chậu vạn thọ phủ kín bông chưng trước sân; hôm nào rửa cổng, chà hàng ba, quét mạng nhện, sơn lại cửa sắt, chùi bộ lư hương với cặp chưn đèn rồi mua cặp liễn đối treo hai bên cửa chính; lên cả "lịch" đi chợ cho mỗi ngày để mua đường, mua đậu, mua hột dưa, chọn trái cây làm mứt… và phân công mỗi đứa con: bẻ dừa, hái me, phơi khô, cắt củ kiệu…

Ngày 29 Tết, lúc trời bắt đầu tờ mờ sáng, ba tôi mang thúng nếp, rổ đậu xuống bờ sông đãi sạch chuẩn bị gói bánh tét thì tôi lon ton chạy theo anh ba tôi ra vườn tuốt lá chuối mang vô rửa sạch phơi sơ trong buổi nắng sáng còn se se rồi đi đào lỗ lò, gom củi khô sẵn bên nền nhà vựa lúa. Loay hoay chuẩn bị đủ thứ xong, cả nhà quây quần trên bộ ván ngựa gõ sau nhà bếp để gói bánh suốt từ trưa đến chiều. Đến khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, mặt trời khuất hẳn sau những rặng dừa xanh, gà đã lên chuồng thì ba tôi bắt đầu lôi chiếc đèn măng - sông lớn ra bơm dầu, thắp sáng cho má tôi và mấy chị sên mứt. Tôi thì theo ba ra "trực chiến" bên nồi bánh tét sôi ùng ục, nghi ngút khói, lăng xăng châm nước, thêm củi… Trời càng về khuya, cả nhà tụ lại trên tấm phản gõ kê sát bên hè vừa canh nồi bánh tét, vừa nghe ba má kể chuyện hồi xưa… Trong tiết trời se lạnh cuối năm, mùi thơm phưng phức tỏa ra từ nồi bánh tét như thổi vào lòng người hơi ấm, xua tan đi cái lạnh cuối Đông. Không biết tự lúc nào tôi đã ngủ lăn quay trong lòng má, đến khi những đòn bánh tét chín, ba tôi cõng tôi còn mê ngủ vô giường rồi quay ra vớt bánh treo trên chiếc đòn dài gác bên bếp. Tới lúc sáng bảnh mắt chui ra rửa mặt thay đồ thì ba má tôi cũng đã bày biện xong bàn thờ với đủ món mặn ngọt trên mâm…

Trong nhịp sống hối hả thời nay, Tết xưa đã đi qua một cách lặng lẽ nhưng những ký ức mà nó đọng lại trong tôi vẫn đong đầy và ngọt ngào như từng miếng dưa hấu xanh vỏ đỏ lòng do chính ba tôi lựa, từng miếng mứt me, mứt khóm, mứt dừa tự tay má tôi làm… Nhớ về văn hóa ẩm thực ngày Tết, vốn là tìm về với một nét văn hóa đã ăn sâu vào tâm cảm mỗi người như một phần không thể mất trong tinh hoa văn hóa dân tộc.

TẠ VĂN